Nghiên cứu kéo dài 20 năm với 110.000 phụ nữ đã phát hiện ra 7 yếu tố nguy cơ chính liên quan đến ung thư vú. Nghiên cứu này hy vọng sẽ giúp các bác sĩ dự đoán và ngăn ngừa khối u trước khi chúng hình thành.
Trong 2 thập kỷ qua, 110.000 phụ nữ ở mọi lứa tuổi, từ khắp Vương quốc Anh, đã hoàn thành nửa triệu bảng câu hỏi và cung cấp hàng ngàn mẫu máu. Những nỗ lực của họ đã giúp tạo ra một ngân hàng dữ liệu khổng lồ, cho phép nghiên cứu đột phá về nguyên nhân của căn bệnh ảnh hưởng đến 55.000 phụ nữ ở Vương quốc Anh mỗi năm.
Hiện đang ở năm thứ 20, Nghiên cứu các thế hệ về ung thư vú của Breast Cancer Now là một trong những nghiên cứu lớn nhất và kéo dài nhất thế giới về nguyên nhân gây bệnh.
Được dẫn dắt bởi Viện Nghiên cứu Ung thư (London), tài trợ bởi Breast Cancer Now, nghiên cứu đã góp phần khám phá ra hàng trăm thay đổi di truyền liên quan đến ung thư vú và làm sáng tỏ các yếu tố lối sống và nội tiết tố chính liên quan đến căn bệnh này. Hy vọng rằng nó sẽ cho phép các bác sĩ dự đoán những phụ nữ nào có nguy cơ cao, mở đường cho các chiến lược phòng ngừa và phát hiện sớm, cứu sống hàng triệu người.
Giáo sư Amy Berrington, người cùng với Giáo sư Montserrat Garcia-Closas, đang dẫn dắt nghiên cứu, cho biết: “Chúng tôi biết rằng không bao giờ có một nguyên nhân duy nhất gây ra ung thư vú. Sự kết hợp giữa gen, lối sống và các sự kiện trong suốt cuộc đời của chúng ta đều góp phần vào nguy cơ phát triển bệnh”.
Bà nói thêm: “Nghiên cứu này đã phát hiện ra các yếu tố nguy cơ mà khi kết hợp lại, có thể giúp xác định những phụ nữ có nguy cơ cao phát triển ung thư vú trong tương lai. Nó có thể giúp họ tiếp cận các lời khuyên cụ thể hơn về việc giảm nguy cơ thông qua phẫu thuật phòng ngừa, sàng lọc thường xuyên hơn và thuốc giảm nguy cơ”.
“Nghiên cứu sẽ được tiến hành trong 20 năm nữa để tiếp tục mở rộng kiến thức về căn bệnh này và phát triển các công cụ đánh giá rủi ro tốt hơn, để chúng ta có thể ngăn ngừa nhiều trường hợp ung thư vú hơn, đảm bảo phụ nữ nhận được sự chăm sóc cá nhân hóa hiệu quả hơn”, Giáo sư Berrington chia sẻ.
Dưới đây, những người dẫn đầu nghiên cứu giải thích một số yếu tố nguy cơ chính được phát hiện bởi nghiên cứu của họ, những yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ phát triển ung thư vú.
Giáo sư Berrington cho biết: “Trong những năm gần đây, đã có những tiến bộ to lớn trong nghiên cứu trên toàn thế giới để tìm ra những thay đổi di truyền làm tăng nguy cơ ung thư vú. Các mẫu được đóng góp cho Nghiên cứu các Thế hệ là một phần quan trọng của nỗ lực quốc tế này”.
Bà nói thêm: “Hơn 300 thay đổi di truyền được gọi là đa hình một nucleotide (SNPs) hiện đã được phát hiện ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú. Mỗi SNP tự nó có một tác động nhỏ, nhưng khi kết hợp lại thì tác động rất đáng kể. Những khám phá này đã được sử dụng để giúp phát triển điểm số nguy cơ di truyền có thể giúp xác định những phụ nữ có nguy cơ cao, ngay cả khi họ không có người thân mắc bệnh ung thư”.
Giáo sư Garcia-Closas cho biết: “Cứ 10 người ung thư vú thì có một trường hợp xảy ra ở một phụ nữ có mẹ, chị gái hoặc con gái đã mắc bệnh này. Tuy nhiên, khi dự đoán nguy cơ của một người nào đó, các nhà nghiên cứu không chỉ xem xét số lượng các trường hợp trong gia đình của một phụ nữ. Quy mô gia đình cũng quan trọng. Phụ nữ có nhiều chị em gái có thể có nguy cơ cao hơn”.
Tương tự, người thân càng trẻ thì càng ít có khả năng bị ung thư vú. Giáo sư Garcia-Closas giải thích: “Các nhà nghiên cứu phát triển một phương pháp chính xác hơn để đánh giá rủi ro tiền sử gia đình, xem xét cả số lượng các trường hợp ung thư vú ở người thân trực hệ và số lượng, tuổi của người thân là nữ. Phương pháp mới này cung cấp cho phụ nữ một dự đoán chính xác hơn về nguy cơ ung thư vú của họ, cho phép họ đưa ra quyết định sáng suốt hơn”.
Giáo sư Berrington nói: “Tuổi mà một bé gái có kinh nguyệt lần đầu ảnh hưởng đến nguy cơ phát triển ung thư vú sau này. Điều này có thể là do phụ nữ có kinh nguyệt sớm hơn sẽ tiếp xúc với hormone sinh dục nữ trong thời gian dài hơn”.
“Phụ nữ sinh vào những năm 1940 có kinh nguyệt lần đầu sớm hơn khoảng một năm so với những người sinh vào đầu thế kỷ 20. Mặc dù có rất ít thay đổi giữa hầu hết các thế hệ sinh ra sau Thế chiến thứ hai, nhưng độ tuổi trung bình có kinh nguyệt lần đầu đã giảm trở lại đối với phụ nữ sinh vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990”, Giáo sư Berrington cho biết thêm.
Bà tiếp tục: “Các yếu tố khác ảnh hưởng đến độ tuổi mà phụ nữ có kinh nguyệt lần đầu tiên bao gồm thừa cân khi còn nhỏ và không hoạt động thể chất. Nghiên cứu cũng phát hiện, những bà mẹ hút thuốc hoặc bị tiền sản giật trong thai kỳ có nhiều khả năng sinh con gái có kinh nguyệt sớm”.
Hút thuốc được biết là làm tăng nguy cơ mắc 14 loại ung thư khác nhau, đáng chú ý nhất là ung thư phổi. Nhưng cho đến gần đây, vẫn chưa chắc chắn liệu điều này có ảnh hưởng ung thư vú hay không.
Giáo sư Garcia-Closas cho biết: “Các nhà nghiên cứu đã phân tích thông tin do những người tham gia Nghiên cứu các Thế hệ của Breast Cancer Now cung cấp. Họ phát hiện, những người đã hút thuốc tại một thời điểm nào đó trong đời có nguy cơ phát triển ung thư vú cao hơn 14% so với những phụ nữ chưa bao giờ hút thuốc”.
Bà nói thêm: “Nguy cơ này thậm chí còn lớn hơn ở những phụ nữ bắt đầu hút thuốc trước 17 tuổi. Những rủi ro này có thể đặc biệt áp dụng cho những phụ nữ đã có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn do tiền sử gia đình mắc bệnh này. Kết quả cho thấy, những phụ nữ hút thuốc có tiền sử gia đình mắc ung thư vú có nguy cơ mắc bệnh cao hơn khoảng 35% so với phụ nữ có tiền sử gia đình chưa bao giờ hút thuốc”.
Tham gia nhiều hoạt động thể chất hơn có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú cả trước và sau khi mãn kinh. Giáo sư Berrington nói: “Hoạt động thể chất có nghĩa là bất kỳ loại vận động nào sử dụng năng lượng. Tập thể dục là một loại, nhưng những loại khác bao gồm làm vườn, bơi lội và làm việc nhà”.
Dữ liệu được thu thập từ hơn nửa triệu phụ nữ trẻ tuổi qua 19 nghiên cứu khác nhau trên khắp thế giới, cho thấy mức độ hoạt động thể chất trong thời gian rảnh rỗi cao hơn có liên quan đến việc giảm nhẹ nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ trẻ.
Giáo sư Berrington cho biết thêm: “Điều này được thấy trên toàn bộ phạm vi mức độ hoạt động được nghiên cứu. Điều này có nghĩa là bất kỳ loại bài tập nào, cho dù bạn rất năng động hay không, đều có thể tốt cho bạn”.
Mang thai và sinh con làm giảm nguy cơ ung thư vú về lâu dài. Giáo sư Garcia-Closas cho hay: “Nghiên cứu cho thấy 10 năm sau khi sinh con, phụ nữ ít có khả năng bị ung thư vú hơn so với những người chưa bao giờ sinh con. Tuy nhiên, mặc dù rất hiếm khi bị ung thư ngay sau khi sinh con, nhưng nguy cơ mắc một loại ung thư xâm lấn (triple-negative) tăng nhẹ. Nhìn chung, về lâu dài, mang thai làm giảm nguy cơ mắc bệnh đối với hầu hết phụ nữ – nhưng việc sinh con có thể ảnh hưởng đến nguy cơ của phụ nữ theo nhiều cách khác nhau”.
Nồng độ hormone anti-Müllerian (AMH) cao trước khi mãn kinh, một loại hormone cho biết kích thước dự trữ buồng trứng của phụ nữ, có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú.
Giáo sư Berrington giải thích: “Các nhà khoa học từ Trường Y khoa NYU đã phân tích các mẫu máu từ những người tham gia 10 nghiên cứu đoàn hệ, để kiểm tra mối liên quan giữa nồng độ AMH với nguy cơ ung thư vú. Những người có nồng độ AMH cao hơn so với tuổi của họ có xu hướng mãn kinh muộn hơn, bản thân điều này được biết là một yếu tố nguy cơ đối với ung thư vú. Nghiên cứu cho thấy, nồng độ AMH dự đoán nguy cơ ung thư vú ngay cả đối với ung thư vú xảy ra trước khi mãn kinh”.
Độ tuổi mãn kinh của phụ nữ từ lâu đã được xác định là một yếu tố nguy cơ đối với ung thư vú. Trung bình, nguy cơ ung thư vú tăng lên sau khi mãn kinh. Điều này đúng cho cả mãn kinh tự nhiên và mãn kinh nhân tạo, xảy ra sau phẫu thuật chẳng hạn.
Giáo sư Garcia-Closas nói: “Các nhà nghiên cứu và cộng tác viên của chúng tôi đã tìm thấy một số gen và các thay đổi di truyền khác có thể ảnh hưởng đến khả năng mãn kinh sớm. Được biết, có mối liên hệ giữa tuổi mãn kinh của mẹ và con gái, nhưng các yếu tố lối sống cũng có tác động. Mãn kinh xảy ra ở độ tuổi trẻ hơn ở những người hút thuốc, nhưng uống rượu, nặng cân hơn và tăng cân khi trưởng thành là những yếu tố liên quan đến việc mãn kinh muộn hơn”.
(Ảnh minh họa: Internet)
(Nguồn: Express)