Cây thương truật còn gọi là Mao Truật, Xích Truật, Nam Thương Truật, tên khoa học Atractylodes lancea (Thunb.) DC. (Atractylis lancea Thunb.), thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Thương truật là một loại cây sống lâu năm, cao chừng 0,6m, có rễ phát triển thành củ to, thân mọc thẳng đứng. Lá mọc so le, gần như không có cuống, lá ở phía gốc chia 3 thùy nhưng cắt không sâu. 2 thủy 2 bền không lớn lắm, thùy giữa rất lớn, lá phía trên hình mác, không chia thùy.
Mép lá trên lá dưới đều có răng cưa nhỏ nhọn. Cụm hoa hình đầu, tổng bao do 5-7 lớp như ngói lợp, lớp dưới cùng chia rất nhỏ hình lồng chim. Hoa hình ống, những hoa phía ngoài là hoa cái, những hoa trong lưỡng tính, tràng hoa màu trắng hay tím nhạt, đỉnh chia 5 thùy xẻ xấu. 5 nhị (bị thoái hóa ở hoa cái), nhụy có đầu vòi chia hai, bầu có lông mềm nhỏ. Cụm hoa thương truật so với cụm hoa của bạch truật nhỏ và gầy hơn, quả khô.
Thương truật từ trước đến nay ta vẫn phải nhập của Trung Quốc, gần đây mới trồng được ở Việt Nam, nhưng chưa phát triển đủ để tự túc được. Tại Trung Quốc, thương truật mọc ở Giang Tô, Hồ Bắc, Hà Nam, loại của Giang Tổ được coi là tổ nhất, Hồ Bắc sản xuất nhiều, tiêu thụ ở Hoa Bắc Đông Bắc và xuất khẩu.
Có thể mùa thu hoạch vào mùa xuân hay mùa thu, loại thu hoạch vào các tháng 7-8 được coi là tốt hơn. Đào về, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con, phơi hay sấy khô. Có nơi đem đốt nhẹ rễ để loại bỏ rễ con hay có nơi lại cạo bỏ vỏ ngoài để lộ các túi tinh dầu màu vàng, trông bề ngoài đẹp, nhưng cả hai phương pháp đều không nên áp dụng vì làm như vậy tỷ lệ tinh dầu sẽ bị giảm.
Trong thương truật có tinh dầu, trong tinh dầu thành phần chủ yếu là atractylola C15H26O và atractylon C14H18O. Theo sự nghiên cứu của hệ dược thuộc Viện nghiên cứu y học Trung Quốc thì trong thương truật Hồ Bắc, Giang Tô, An Huy và Hà Nam (Trung Quốc) tỷ lệ tinh dầu lên tới 5-9%, trong khi đó thương truật ở một bộ phận của Hà Nam, Thiểm Tây tỷ lệ tinh dầu là 3-5%, các tỉnh khác như Liêu Ninh, Hắc Long Giang, Cát Lâm, Hà Bắc, Sơn đông, Sơn Tây thì tỷ lệ chỉ có 1-3%.
Năm 1927, Kim Thượng Tần báo cáo liều nhỏ tinh dầu của thương truật có tác dụng trấn tĩnh đối với một loại ếch xanh (Trung Quốc), đồng thời xúc tiến cơ năng phản xạ của tủy sống, nhưng nếu dùng liều cao có tác dụng ức chế trung khu thần kinh rồi đến chết do ngừng hô hấp.
Năm 1936, Kinh Lợi Ban và Lý Đăng Bảng dùng cao thương truật tương đương với 6g vị thuốc trên 1kg thể trọng, tiêm dưới da cho thỏ thì thấy trong vòng 2-5 giờ, lượng huyết đường giảm xuống, đối với tim ếch cũng có tác dụng ức chế nhịp đập, làm cho tim đập chậm. Nếu dùng liều cao thì làm cho tim tê liệt mà ngừng đập.
Nếu tiêm tĩnh mạch với liều nhỏ (0,1-0,3g cho Ikg thể trọng) thì làm cho huyết áp hơi tăng cao, liều cao (0,5- 2ml trên 1kg thể trọng) thì làm cho huyết áp hạ thấp, nhưng đối với hô hấp thì dù với liều to hay nhỏ đều làm cho tạm thời tăng nhanh và không có tác dụng lợi tiểu rõ rệt. Đối với tá tràng cô lập của thỏ thì có tác dụng ức chế.
Bạch truật so với thương truật tác dụng cũng hơi giống nhau. Năm 1952, Đặng Vũ Phi đã thí nghiệm thấy bạch truật có tác dụng ức chế đối với một loại vi trùng gây bệnh ngoài da.
Theo đông y thì thương truật vị khổ (đắng), tân (cay), khí liệt (mạnh) cũng vào hai kinh tỳ và vị như bạch truật. Có khả năng kiện tỳ, táo thấp phát hãn, bạch truật vị khổ, cam (ngọt) khí hòa, do đó đông y thích dùng bạch truật và ít dùng thương truật, trên thị trường thương truật tiêu thụ ít và chậm hơn bạch truật.
Thương truật có khả năng hạ thấp lượng huyết đường quá cao, có thể dùng trong bệnh huyết đường, còn dùng trong triệu chứng tinh thần không phấn khởi, chân tay không có lực và cũng có tác dụng bổ dạ dày, giúp tiêu hóa. Ngày dùng 5-10g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột, hoặc xông hun để tiêu độc trong nhà, chống sâu bọ.
Bổ tỳ, mạnh gân xương, tư thận, sinh tinh: Thương truật 5kg sau đó cạo bỏ vỏ thô, bồi khô, tán bột, lấy nước gạo trộn với bột thương truật, quấy đều, lọc để loại bỏ cặn. Hắc chi ma giã, bỏ vỏ, nghiền nát, lọc lấy nước cốt, bỏ bã. Trộn nước cốt này với thuốc bột thương truật, phơi khô. Mỗi lần uống 12g cùng nước cơm hoặc rượu nóng trong lúc đói.
Trị viêm khớp đau do thấp nhiệt, phong hàn thấp: Thương truật, tang ký sinh, tỳ giải, thạch hộc, tần giao, ý dĩ nhân, mộc qua, tàm sa, hoàng kỳ, thục địa, thạch xương bồ chuẩn bị đều 10g, quế chi 6g, cam thảo 3g sau đó sắc uống.
Sử dụng thương truật cần theo hướng dẫn của thầy thuốc Đông y để tránh một số tác dụng phụ. Dưới đây là một số lưu ý bạn cần ghi nhớ:
– Người mắc chứng đi ngoài lỏng hoặc tỳ vị bị hư yếu không nên sử dụng thuốc này.
– Bệnh nhân mắc chứng táo bón hoặc hay đổ mồ hôi cũng nên tránh sử dụng thuốc này.
– Người đang sử dụng cây thuốc thương truật cần hạn chế một số loại thức ăn nhất định như thịt chim bồ câu hoặc trái đào. Nếu không may ăn phải, có thể gây tác dụng phụ ảnh hưởng đến hiệu quả của thuốc và sức khỏe chung.
– Gia vị tỏi và rau mùi cũng là những loại thực phẩm nên tránh khi dùng thuốc này.
(Ảnh: Internet)