Nghiên cứu mới đây cho thấy, atropine 0,05% hiệu quả hơn giả dược trong việc kiểm soát tiến triển cận thị và độ dài trục nhãn cầu ở trẻ em. Tuy nhiên, một số tác dụng phụ như nhìn mờ và sợ ánh sáng đã được ghi nhận.
Nghiên cứu được thực hiện bởi TS. James Loughman (Trung tâm Nghiên cứu Mắt Ireland, Dublin, Ireland) và công bố trên JAMA Ophthalmology vào ngày 9/1/2025. Nghiên cứu này là một phân tích thứ cấp dựa trên kết quả 3 năm của thử nghiệm MOSAIC (Nghiên cứu Kết quả Cận thị 24 tháng của Atropine ở Trẻ em), nhằm đánh giá hiệu quả và độ an toàn của các phác đồ atropine khác nhau ở trẻ em từ 6-16 tuổi chưa được điều trị cận thị, có độ cận thị cầu tương đương ≤ −0,5 diop (D).
Dữ liệu của 199 trẻ em bị cận thị ở châu Âu (độ tuổi trung bình 13,9 tuổi; 60,8% là nữ) đã được phân tích.
Các em được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: Nhóm 1 (nhỏ giả dược hàng đêm trong 2 năm, sau đó nhỏ atropine 0,05% trong 1 năm; n = 66) và nhóm 2 (nhỏ atropine 0,01% hàng đêm trong 2 năm, sau đó được phân ngẫu nhiên lại để nhỏ giả dược hàng đêm, giả dược giảm dần hoặc atropine 0,01% giảm dần trong 1 năm; n = 133).
Nhóm giả dược hàng đêm và nhóm giả dược giảm dần được gộp thành một nhóm điều trị duy nhất để phân tích. Kết quả chính bao gồm những thay đổi quan sát được trong tiến triển của cận thị, được đánh giá bằng khúc xạ cầu tương đương điều tiết và chiều dài trục nhãn cầu từ tháng thứ 24 đến tháng thứ 36.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ em trong nhóm atropine 0,01% sau đó chuyển sang giả dược có tiến triển cận thị cầu tương đương (chênh lệch hiệu chỉnh, −0,13 D; P = .01) và độ dài trục nhãn cầu (chênh lệch hiệu chỉnh, 0,06 mm; P = .008) lớn hơn so với nhóm giả dược sau đó chuyển sang atropine 0,05%. Trẻ em trong nhóm giả dược sau đó chuyển sang atropine 0,05% cũng có độ dài trục nhãn cầu ít hơn (P = .04) so với nhóm atropine 0,01% sau đó chuyển sang atropine 0,01% giảm dần.
Tác dụng phụ được ghi nhận ở nhóm sử dụng atropine 0,05% bao gồm nhìn gần bị mờ (15%) và sợ ánh sáng (8%). Trong khi đó, chỉ 3% trẻ em trong nhóm atropine 0,01% sau đó chuyển sang atropine 0,01% giảm dần báo cáo nhìn mờ và không có trường hợp nào bị sợ ánh sáng.
Mặc dù gặp tác dụng phụ, không có bệnh nhân nào trong nhóm giả dược sau đó chuyển sang atropine 0,05% ngừng điều trị, với 92% hoàn thành lần khám 36 tháng và 81% tuân thủ phác đồ điều trị. Các tác giả nghiên cứu nhận định: “Nhận thấy việc điều trị bị trì hoãn 2 năm ở nhóm trẻ ban đầu được chỉ định dùng giả dược, thuốc nhỏ mắt atropine 0,05% đã làm chậm cả tiến triển cận thị và tăng trưởng trục mắt trong khoảng thời gian 1 năm”.
Nghiên cứu này cũng có một số hạn chế, bao gồm kích thước mẫu nhỏ hơn ở các nhóm điều trị trong năm thứ 3 và các tác động tiềm ẩn đối với những người tham gia chuyển từ atropine 0,01% sang giả dược hoặc liều giảm dần.
Vì nghiên cứu thiếu nhóm đối chứng không được điều trị, nên sự tiến triển cận thị phục hồi chỉ có thể được đo dựa trên kết quả dự kiến của năm thứ 3 từ nhóm atropine 0,01% sau đó chuyển sang giả dược. Độ tuổi của những người tham gia trong năm thứ 3 cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng phát hiện sự tiến triển phục hồi.
Nghiên cứu được hỗ trợ một phần bởi Hội đồng Nghiên cứu Sức khỏe; Fighting Blindness (Ireland); và Vyluma. Một số tác giả báo cáo đã nhận được tài trợ, hỗ trợ phi tài chính hoặc phí tư vấn hoặc có một số mối quan hệ khác với Vyluma và các nguồn khác.
(Ảnh minh họa: Internet)
(Nguồn: Medscape)