Bệnh nhân ung thư phổi thường phải đối mặt với những thách thức về thể chất lâu dài sau phẫu thuật. Các chương trình tập luyện sau phẫu thuật chủ yếu được đánh giá trong môi trường bệnh viện có sự giám sát. Tuy nhiên, việc triển khai rộng rãi các chương trình này còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, các chương trình tập luyện tại nhà được xem là một giải pháp thay thế đầy hứa hẹn.
Nghiên cứu được công bố trên JAMA Network Open do TS Catherine L. Granger (Khoa Vật lý trị liệu, Đại học Melbourne, Parkville, Úc) dẫn đầu đã đánh giá 116 bệnh nhân (độ tuổi trung bình 66,4 tuổi) trải qua phẫu thuật ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Một nửa trong số đó được phân ngẫu nhiên vào chương trình tập luyện tại nhà kéo dài 3 tháng (58 người) và nửa còn lại được chăm sóc thông thường (chăm sóc y tế tiêu chuẩn và theo dõi). Chương trình tại nhà kết hợp các bài tập thể dục, kỹ thuật quản lý và hỗ trợ hành vi. Buổi tập đầu tiên được thực hiện trực tiếp trước khi bệnh nhân xuất viện, sau đó là 12 buổi tư vấn qua điện thoại hàng tuần do các nhà vật lý trị liệu hướng dẫn. Bệnh nhân cũng có nhật ký để theo dõi việc tuân thủ hàng ngày và theo dõi các bước thực hiện tại nhà.
Kết quả chính là chức năng thể chất tự đánh giá, được đánh giá bằng Bảng câu hỏi Chất lượng Cuộc sống Cốt lõi của Tổ chức Châu Âu về Nghiên cứu và Điều trị Ung thư, sau 3 tháng. Các kết quả phụ bao gồm khả năng vận động, chất lượng cuộc sống và hiệu quả tự tập luyện (các rào cản đối với việc tập luyện). Tổng cộng, 88,8% bệnh nhân đã hoàn thành đánh giá theo dõi sau 3 tháng và 81,9% bệnh nhân hoàn thành đánh giá sau 6 và 12 tháng.
Sau 3 tháng phẫu thuật, chức năng thể chất tự đánh giá không khác biệt đáng kể giữa nhóm tập luyện tại nhà và nhóm đối chứng (chênh lệch trung bình 1 điểm; KTC 95%, -6 đến 8). Cũng không có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa hai nhóm ở tháng thứ 6 hoặc 12.
Tuy nhiên, so với những người được chăm sóc thông thường, những người tham gia chương trình tập luyện tại nhà cho thấy khả năng vận động được cải thiện đáng kể sau 3 tháng – quãng đường đi bộ trung bình trong 6 phút là 484,6m so với 425,7m. Và ở tháng thứ 6, quãng đường đi bộ trung bình trong 6 phút là 495m so với 412m.
Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe tổng thể được cải thiện đáng kể sau 3 tháng (chênh lệch trung bình 7,1 điểm). Ở tháng thứ 6, các chỉ số chức năng thể chất được đo lường khách quan đã cải thiện (chênh lệch trung bình 0,8 điểm). Bệnh nhân trong nhóm can thiệp tập thể dục cũng báo cáo ít gặp rào cản hơn trong việc tập luyện ở cả tháng thứ 3 và 6. An toàn của bệnh nhân được duy trì trong suốt chương trình, chỉ có một biến cố bất lợi nhỏ được báo cáo và không có biến cố bất lợi nghiêm trọng nào.
Mặc dù kết quả chính không đạt được, nhưng các chuyên gia bên ngoài nhận định trong một bài xã luận kèm theo: “Nghiên cứu này cho thấy, hoạt động thể chất tại nhà sau phẫu thuật ung thư phổi đã cải thiện nhiều kết quả liên quan đến lâm sàng: Khả năng vận động, [chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe] và hiệu quả tự tập luyện ở tháng thứ 3 và 6. Bệnh nhân và bác sĩ nên cân nhắc mạnh mẽ việc khuyến nghị (hoặc cung cấp) các biện pháp can thiệp hoạt động thể chất tại nhà sau phẫu thuật ung thư phổi”.
Các tác giả nghiên cứu cũng đồng tình và lưu ý rằng “việc triển khai chương trình này vào chăm sóc ung thư phổi nên được xem xét”. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Cơ quan Ung thư Victoria, Hội đồng Ung thư Victoria và Đại học Melbourne. Các tác giả không báo cáo bất kỳ xung đột lợi ích nào.
Một số hạn chế tiềm ẩn bao gồm việc loại trừ những người không nói tiếng Anh và việc không che giấu việc phân bổ nhóm đối với người tham gia và các nhà vật lý trị liệu. Quần thể mẫu đã hoạt động thể chất tích cực khi bắt đầu và nghiên cứu không đủ mạnh để phát hiện sự khác biệt trong các kết quả phụ. Với khoảng 12% bệnh nhân được giới thiệu đến phục hồi chức năng phổi ở cả hai nhóm, hiệu quả của biện pháp can thiệp nghiên cứu này so với huấn luyện tập thể dục tại trung tâm có giám sát vẫn chưa rõ ràng.
(Ảnh minh họa: Internet)
(Nguồn: Medscape)