Nghiên cứu mới cho thấy, rối loạn liên quan đến việc sử dụng cần sa có thể làm tăng gấp 3 lần nguy cơ mắc bệnh ung thư đầu và cổ. Phân tích dữ liệu từ hơn 4 triệu bệnh nhân đã cho thấy những tác động có thể gây ung thư của chất này.
Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, sử dụng cần sa quá mức có liên quan đến tỷ lệ mắc ung thư đầu và cổ cao hơn.
Theo các nhà nghiên cứu, những bệnh nhân mắc rối loạn liên quan đến cần sa có nguy cơ mắc bất kỳ loại ung thư nào ở vùng đầu và cổ cao hơn gấp 3 lần, so với người không bị. Nghiên cứu đã phân tích dữ liệu từ mạng lưới nghiên cứu sức khỏe toàn cầu lớn (TriNetX), với hơn 90 triệu người từ 64 tổ chức y tế tại Mỹ.
Trong tổng số 4,1 triệu bệnh nhân được phân tích, có 116.076 người được chẩn đoán mắc rối loạn liên quan đến cần sa, trong khi 3,9 triệu người còn lại không mắc.
Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, sử dụng cần sa quá mức có liên quan đến tỷ lệ mắc ung thư đầu và cổ cao hơn. (Ảnh minh họa: Internet)
Rối loạn liên quan đến cần sa thường là hành vi sử dụng chất này quá mức, kèm triệu chứng tâm lý xã hội như chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp bị suy giảm. Các bệnh nhân mắc rối loạn này, được ghép cặp với những người không mắc dựa trên các đặc điểm nhân khẩu học, rối loạn liên quan đến rượu và việc sử dụng thuốc lá.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nguy cơ ung thư ở nhóm bệnh nhân có rối loạn liên quan đến cần sa cao hơn đáng kể.
Nghiên cứu này được thực hiện bởi BS Tyler J. Gallagher và Niels C. Kokot (Trường Y khoa Keck thuộc Đại học Nam California, Mỹ). Bài viết đã được công bố trực tuyến vào ngày 8 tháng 8 năm 2024 trên tạp chí JAMA Otolaryngology-Head & Neck Surgery.
Mặc dù nghiên cứu đã chỉ ra những mối liên hệ quan trọng, nhưng cũng có những hạn chế.
Thông tin về thành phần của nhóm nghiên cứu và thời gian theo dõi còn hạn chế. Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng tổng quát của các phát hiện.
Việc thiếu thông tin về thời gian sử dụng, cường độ và liều lượng cũng làm hạn chế khả năng phân tích mối quan hệ liều lượng-đáp ứng.
Ngoài ra, việc sử dụng cần sa có thể bị báo cáo thiếu. Điều này có thể làm giảm mức độ rủi ro tương đối mà nghiên cứu phát hiện.
(Nguồn: Medscape)